Nhớ về kỷ niệm làng Chuồn, cảm thụ Linh mục Lý
Nguyễn Văn Hóa
Gia
đình của mẹ tôi có ba anh em: một trai hai gái. Người con đầu là trai, mẹ tôi
là con gái út. Cũng bởi, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của một xã hội bị
ảnh hưởng của văn hóa Đại Hán, nên phụ nữ không được cho ăn học. Ông ngoại tôi
chắc là người hay chữ, và có thời làm ngự y, nên chỉ có người con trai đầu là
được học chữ “thánh hiền”, đọc được vài ba cuốn sách Tàu, được truyền nghề
đông-y-sĩ -tục gọi là ông-thầy-Hưng; sau đó đi làm thầy thuốc cho một tiệm Tàu
ở gần Gia Hội, được trả tiền bắt mạch và ăn chia tiền thuốc, nên khá giã. Nhờ
khá giã, nên nhà cao cửa lớn, con cái sống đầy đủ, phủ phê, nhưng lại ham chơi
và học dốt. Bằng chứng có đứa con trai của ông tuổi gần bằng người anh kế tôi,
tức là cách tôi 5 lớp, nhưng thi tú tài hoài không đậu. Tôi nhớ anh kế tôi học
ban Toán, nhưng thích đọc sách Triết, thích thơ, nên trước mỗi dịp thi
(diplôme, tú tài…) chỉ cần chừng một tháng trước khi thi bỏ thì giờ ngồi ôn lại
bài và làm toán, là đủ để thi đậu. Người anh con cậu tôi (tên T.) thi rớt “bốn
keo” (4 năm liên tục), cho nên đến lúc tôi đang học đệ tam ở trường Nông Lâm,
nộp đơn “thi băng” (thi trước một năm), thi chơi nhưng đậu thiệt, đúng vào năm
anh nầy cũng đậu cùng lúc, cùng nằm trong danh sách có tên tôi trước cổng
trường Quốc Học, nên anh ta ngẩn tò te, xem chừng hơi xấu hổ. Anh nầy đậu nhưng
không muốn đi lính, nghe nói “đút lót” gì đó và kết thân với Liên Thành (LT -có
thời làm trưởng ty cảnh sát) được LT cho làm ‘công an chìm’, sắm chiếc xe
Bridgeston chạy tà tà đi chơi và tán gái.
Tôi
gọi người anh của mẹ tôi bằng cậu, nhưng không ưa ông chút nào cả vì tình tình
khắc nghiệt, khó chịu của ông. Một tinh thần hủ nho kì dị đến nỗi mấy con ông
cũng không ưa nữa, huống chi là những người cháu như bọn tôi. Đúng lý ra, nếu
mẹ tôi được học chữ cho tới nơi tới chốn thì sẽ hơn hẳn ông cậu nầy về trí
thông minh và đức độ. Ông ngoại tôi có một người em (tôi gọi là Ôn Sâm) say mê
giáo lý nhà Phật, thích đi tu, thích tụng kinh gõ mõ nhưng nhà không cho. Xuất
gia không được, Ôn buồn tình đi ngao du, rồi lấy vợ ở làng Mỹ Chánh và làm ông
“tu sĩ” tại gia, sống hiền lành, ngày đêm kinh kệ ở luôn với nhà vợ. Thế mà,
người cậu thường chửi “ông chú” (ngang hàng với cha mình) nầy là “đồ thằng đầu
trọc vô tích sự, ăn rồi chỉ biết tụng kinh gõ mõ”! Tinh thần của tầng lớp hủ
nho, đọc được vài ba cuốn sách chữ Hán thời đó, đáng đặt ra nhiều vấn đề lắm…
Mẹ
tôi lớn lên đi lấy chồng ở làng Chuồn (đặc danh của làng An Truyền), tức là quê
của bà nội tôi –một người giàu có nhờ vào của cải, tài sản của chồng. Không may
ba tôi chết sớm, năm mẹ tôi mới 30 tuổi, không còn “điểm tựa” vững chắc ở nhà
chồng, nên bị mấy người con bà nội còn lại “đàn áp”, đối xử hết sức bất công;
khi bà chết không được chia của cải gì, mà còn bị “đì, chèn ép” nữa. Đây là lề
thói “mất dạy” nhất của xã hội Việt
Biết
rằng, ông cố tôi là Nguyễn như Chĩ, quê gốc Quảng Bình, đại điền chủ một vùng,
“nhất Đồng Nai, nhì Hai Huyện”, theo đường chúa Nguyễn vô Nam, mua một vùng đất
lớn bên phía tây bắc sông An Cựu đền gần chân núi Ngự Bình, lập một ngôi chùa
có tên là Trà Am, nhưng không có sư trụ trì, nên giao lại cho một ông trùm
coi sóc. Chiều dài lập nghiệp của tổ tiên và ông cố nơi đất thần kinh để lại
chừng 52 ngôi mộ. Năm 1945, thời Hồ chí Minh lên ngôi hoàng đế ở Ba Đình,
Bảo Đại hiểu được cơ trời thà “chịu làm dân một nước độc lập hơn làm vua một
nước nô lệ” thoái vị, mà nếu không “thoái” thì Việt Minh gài người đầy trong
triều đình nó sẵn sàng cứa cổ Vua bất cứ lúc nào. 52 ngôi mộ của tổ tiên
ông cố tôi bị phá lần đầu vào mùa Thu 1945, đến Mậu Thân 68 bị phá hại lần thứ
hai, thế mà mẹ tôi ở Sài Gòn phải ra Huế bỏ tiền thuê người tìm lại tên tuổi
từng ngôi mộ, sửa sang lại một lần nữa. So với phụ nữ cả thế giới, chỉ có một
người mẹ, một người phụ nữ làm dâu xứ Huế mới có thể làm được điều nầy.
Vì
thế mà sau hơn 30 năm xa xứ, tôi trở lại Huế vào tháng Giêng năm 2002, việc đầu
tiên của tôi là phải đi thăm mồ mã tổ tiên. Sống cái nhà, thác cái mồ mà!
Sau
khi cha mình mất, ông nội tôi làm “chef de gare” của ga xe lửa ở gần nhà vôi
Long Thọ, không xa trường Bình Linh (do ông Linh mục Pellerin thiết lập) là
bao. Ông nội tôi về mua đất, nhà ở Chiết Bi, từ đây ngày ngày đi làm việc. Ông
người cao lớn lại võ công cao cường, nên rất thích đánh bọn cướp đường, bọn du
thử du thực, nên mỗi ngày đi làm về nhà, ông thường cố tình đi làm về trễ để
trời tối, từ khoảng chợ Mai về xuống Dưỡng Mong, bên phải là nhà ở, nhưng bên
trái là đồng ruộng vắng vẻ, bọn cướp bóc hay xuất hiện ở rừng cây Dương Liễu, thế
là có dịp ông tôi cho vài thằng cướp phải nằm đường hay hồn vía lên mây bỏ chạy
đến vãi cứt trong quần. Vì tiếng tăm đánh cướp của ông, nên nhà ông tối đến
không cần khóa trái cửa, mùa hè cứ mở toang hoang cho mát, chỉ có đứa cướp tới
số mới dám bén mảng vào cướp mà thôi.
Ông
nội tôi có thói quen mê hát bội, mà làng Chuồn thời ấy là nơi hay tổ chức nhiều
buổi hát bội, có đào kép nổi tiếng từ trên phố về hát. Gánh hát của ông Họa là
một trong những gánh nổi tiếng. Có một lần, ông nội tôi xem hát thì gặp một cô
gái không đẹp lắm, nhưng ăn nói sắc sảo, tính nết tự nhiên nên ông tôi “khoái”,
và từ đây mà nên duyên chồng vợ. Theo lời của mẹ tôi thì bà Nội tôi lấy ông
cũng như là “lấy của”, và từ đấy anh em tôi có mối liên hệ với làng Chuồn.
Bên
giòng dõi ông cố tôi có một người con mà tôi hay gọi là “chú Huyện Hiền” sau
này lập nghiệp ở Nha Trang. Ông Huyện Hiền có một người con là Nguyễn thượng
Thọ (NT Thọ) là sĩ quan cấp Tá, sau đi “tù cải tạo” Việt cộng thì chết. Tôi
được biết thêm ông NT. Thọ và ông Ngô Ganh (làm quản đốc đài Phát Thanh Huế lúc
xảy ra đêm biến cố Phật Đản tháng 5/63) cùng viết chung một kế hoạch chống Cộng
gọi là “Kế hoạch Chân Trời Mới.” Bây giờ ở hải ngoại có bọn nào đó thiết lập
một chương trình gọi là đài phát thanh “Chân Trời Mới” không hiểu có biết gốc
gác gì tới điều này không? Nếu biết, thì người ta gọi hành động đó là “đạo” chữ
nghĩa vậy!
Nhìn
vào bức hình của gia đình cụ cố Ngô đình Khả (chụp khoảng năm 1905), ta thấy
chỉ có mình cụ và cụ bà là có mang giày), trong khi mấy con (trong đó có cụ Ngô
đình Diệm chừng 4, 5 tuổi) đi chân trần, mặc quần xà lỏn. Một gia đình ở nấc
thang xã hội là cấp thượng thư mà còn “hàn vi” dường ấy, thì huống chi nhưng
người dân xuất thân từ “khố rách áo ôm” như vùng Bùi Chu-Phát Diệm, người dân
phải khốn khổ tới mức nào. Nếu cà khật đem so sánh cho vui thì gia đình cụ cố
Khả thua xa gia đình ông cố tôi về mặt kinh tế, nhiều lắm. Đó là lý do có thể
hiểu được vì sao gia đình ông cố tôi cùng xuất thân từ một vùng đất tổ tiên với
cụ cố Khả, mà ông cố tôi lại không cần phải “theo đạo để có gạo mà ăn” như cụ.
Ông cố tôi vào đất Thuận Hóa còn nghĩ tới chuyện dựng chùa, xây dựng vài việc
công ích khác mà giờ đây vì thất lạc gia phả, nên tôi không thể chứng minh. Làm
sao chúng ta có thể “khinh rẻ, coi thường” những người dân ở vùng Bùi-Phát, hay
những nơi vùng biển đời sống khó khăn, khốn khổ khác, thường là nơi tiếp cận
đầu tiên với các nhóm truyền đạo Thiên Chúa giáo lại không thể “theo đạo để có
gạo mà ăn” cho được!? Đó là chưa nói tới những chuyển biến dù hòa bình
hay không, để thay đổi nấc thang xã hội hay làm một cuộc cách mạng văn hóa,
chính trị lật đổ triều đình nhà Nguyễn –là một “bọn hoài Lê”!. Sự giáo dục văn
hóa, ngôn ngữ Pháp của thực dân cho đám người “mới” này có đủ cả hai mặt ưu
điểm và nhược điểm. Ưu điểm là biết mở óc ra với văn minh, nhưng nhược điểm là
tạo nên một nọa tính mà dân gian hay gọi là “Cá mè một lứa”; đứa nào
cũng kiêu căng hợm hĩnh, ngạo mạn không có cơ sở, tự tôn không có thực chất,
luôn luôn vỗ ngực là những thiên tài, đứng trên thiên hạ. Một nhược điểm đồng
chất khác là, ưa chuộng giàu sang phú quý nhưng lại che đậy cái nghèo hèn, do
đó ưa nói láo và thiếu chân thật. Chúng ta thử tưởng tượng một xã hội chừng 40
triệu người đều mang một tâm chất “cá mè” nầy thì thật là tai họa. Chiến tranh
và tranh chấp triền miên thôi, các bác ơi.
Mới
đây có một nhà văn gốc Nam-Ngãi nào đó ở trong nước phàn nàn tại sao thời Ngô
đình Diệm không nghĩ tới việc nâng đỡ dân ở các vùng “chó ăn đá gà ăn muối” nầy
(chữ nghĩa của mấy anh miệt vườn thuộc địa Tây đấy!) khá hơn, lại dùng chính
sách “tố Cộng, diệt Cộng” để sát hại họ, nên họ phải nghe theo lời tuyên truyền
mật ngọt của “bọn Việt cộng Bắc kỳ răng đen mã tấu”, thờ bác Hồ như thánh tổ!
Đó cũng là cách trách móc, nhưng họ quên lịch sử của cụ Thượng Thư mà gia
đình con cái bần hàn như thế đó, hay làm Vua cuối đời nhà Nguyễn như Bảo Đại mà
không có tiền trả lương cho quần thần, phụ tá, thì lấy tiền đâu mà thực hiện
chính sách dân sinh, nâng cao đời sống của người dân nghèo, nếu không có tiền
của Mỹ, hay tiền của Tây?. “Bọn” người Minh Hương trôi giạt qua đất An
Nam đâu có đem tiền của gì qua đây, nhưng nhờ chúa, vua An Nam dành cho họ cơ
hội để ăn nên làm ra mấy đời đó thôi, nhưng làm sao đòi hỏi “bọn” người nầy
phải trung kiên ái quốc, thương dân thương đất Việt? Nhưng đâu có phải vì vậy
mà người Minh Hương vỗ ngực xưng hùng, tôi là bọn người tiên phong khai mở đất
Nam Kỳ quốc; hay như một thành phần Nam-Ngãi được chúa Nguyễn đưa vô Nam khai
hoang lập ấp một vài đợt rồi sinh con đẻ cháu, bây giờ lại huyênh hoang nói chỉ
có chúng tôi mới đúng là dân Nam ký mà thôi? Mấy năm trước, tôi về Sài
Gòn, nghe một vài người bạn kể, có anh chủ nhiệm chủ bút (hình như là chú Việt
Cộng con Nguyễn công Khế -trình độ Anh ngữ English-for-today One) của tờ Thanh
Niên tuyên bố, “đứa nào mà không phải dân Quảng
* *
*
Với
một quá khứ gắn bó từ thời thơ ấu với làng Chuồn như đã đề cập, nên khi về thăm
đất nước kể từ ngày tôi vượt biển (giữa năm 1980), nên tôi phải về thăm làng An
Truyền. Lần nầy, có mang “bà xã” tôi đi theo. Bà xã tôi là dân gốc Bùi Chu Phát
Diệm, theo đạo Thiên Chúa, nhưng suốt một thời lớn lên đều ở Campuchia, học
trường 'soeurs', nên sự hiểu biết về Việt Nam đã hạn chế, mà hiểu biết về đất
Huế của tôi là con số không. Cho nên, việc trước tiên là tôi cho bà đi
thăm chùa Thiên Mụ, lăng tẩm, đền đài, ăn món ăn Huế. Khi đi vào cửa Chùa Thiên
Mụ, bà hỏi tôi, “Ủa, chùa mà sao có hai tượng ông Ba Tàu đứng trước cửa vậy
anh?.” Tôi giải thích, “đây không phải là hai ông Tàu đâu, mà là biểu tượng của
một ông Thiện và một ông Ác. Bất cứ ai vào đây, cửa Chùa đều rộng lòng đón mời.
Thí dụ có ai theo đạo Công Giáo như bà, thì trước khi vào cửa hãy gởi cái “tâm
ác” lại đây, vào trong Chùa nhìn Phật, ngắm hoa, cây cảnh… khi đi ra bà sẽ thấy
tâm hồn mình thảnh thơi, lòng nhẹ nhõm phơi phới liền…” Bà ta nghe tôi giải thích
thì khoái trá cười nhe hai hàm răng. Việc sau cùng ở Huế, là chúng tôi
phải về làng Chuồn thăm mộ ba tôi.
Trước
khi đi Việt Nam, tôi đã biết tin linh mục Lý bị chính quyền ép buộc dời cư từ
giáo xứ Nguyệt Biều về cư trú và làm “chủ quản” giáo xứ An Truyền, nên tôi đã
biết được cái “khổ nạn” nầy của ông.
Làng
An Truyền chia làm ba khu vực, đi vào đầu làng là Giáp
Từ
giữa làng đi hết xuống cuối làng chiếm hơn 2/3 diện tích, thì đây mới đúng là
làng An Truyền. Giữa làng có một cái đình lớn, sân trước rộng có đúc những
tượng voi quỳ chầu hai bên. Nhờ có ngôi đình nầy, nên thanh niên, trai tráng
trong làng, dù phải đi học ở đâu xa, nhưng cứ đến kỳ hạn vào Thu, thì tụ họp
trở về để cùng với các bô lão, các bậc trưởng thượng trong làng tổ chức lễ
nghinh thần làng. Tụ tập từ sáng sớm, hai đoàn thanh niên (đa số là sinh viên,
học sinh) tuần tự làm lễ đi nghinh thần từ đình tổ ra một ngôi miếu xây bên đầm
An Truyền ở cuối làng. Ở đây sẽ làm một cuộc lễ tế thần làng, sau đó sẽ rước
thần trở lại ngôi đình tổ. Chỉ với một tục lệ rước thần mỗi năm ở làng An
Truyền, có đứa nào dám lộng ngôn bảo chúng tôi là những kẻ “vô thần” nhĩ!?.
Ở gần cuối làng có một ngôi Chùa (An Phước)
khá khang trang, mặt hướng ra cánh đồng và nhánh sông đào nhỏ. Tôi chưa nắm
chắc từ yếu tố lịch sử nào mà làng An Truyền nầy sản sinh nhiều vị danh tăng,
cũng như có nhiều người có tiếng về đường học vấn, văn học…có phải từ ngôi chùa
kết khí tụ nầy không? Ở đây, thuở xa xưa có người chị tôi, các anh tôi thời
niên thiếu cũng từng là chị đoàn trưởng, tham gia văn nghệ, huấn luyện thiếu
nhi oanh vũ…
Làng
An Truyền ngoài kinh tế nông nghiệp, còn thu lợi vào nhờ vào cái đầm lớn thông
thương với phá Tam Giang tới Cầu Hai, nên có một số cư dân làm nghề đánh cá. Cá
nước mặn ở đây ngon có tiếng, và có một giống cá thổ sản là cá Chuồn, có phải
vì vậy mà có đặc danh là “Làng Chuồn”? Gần đình làng có một ngôi chợ lớn,
bán đủ thứ thực phẩm từ cá tươi đến rau cải, nhóm từ sáng sơm đến trưa mới tan
dần, mỗi ngày. Từ thời Bảo Đại đến thời ông Ngô đình Diệm, làng nầy sống sung
túc và an ninh, nhưng từ lúc có đoàn quân cụ Hồ phối hợp với bọn nằm vùng ở
miệt Xuân Ổ, Xuân Đợi, Phú Thú đi lên gây xáo trộn về an ninh, thì cuộc sống
không còn bình thường nữa. Thời gian nầy, gia đình tôi đã vào Nam, tôi cũng
vậy, nên không biết nhiều về giai đoạn từ 1969 trở về sau…
Năm
1969, tức là sau trận Mậu Thân, lúc ấy tôi đang ở Sài Gòn, xem tivi thì thấy
Nguyễn văn Thiệu đi ra Huế dự lễ tưởng niệm cải táng những người Huế bị chôn
sống trong Tết Mậu Thân, ông ta đáp máy bay trực thăng Utiti xuống sân vận động
đá bóng trước đình làng, rồi cho lính tới nhà “Mụ Lé” mua bánh Tét. Mụ Lé là
một người gói bánh Tét nổi tiếng của Làng Chuồn. Tôi không ngờ ông Thiệu mà
cũng mê bánh Tét làng Chuồn! Khi đọc lịch sử, chúng ta cũng cần nên biết
ở đây là nơi xuất phát những người tay hảo hớn nổi lên chống triều đình thời Tự
Đức với “giặc Chày Vôi” của Đòan Trưng, Đoàn Trực dưới sự cố vấn của thiền sư
Liễu Triệt…
Thời
thơ ấu các anh em tôi đều có trải qua quãng thời gian nào đó với làng Chuồn,
nhưng khi đi học thì phải ở lại trên phố, vì mùa đông đạp xe đạp đi xa rất cực
vì mưa gió và lạnh. Chỉ có mùa hè mới về quê. Từ khi ông nội tôi mất để lại cho
bà nội tôi nhiều tiền của, vậy mà ba tôi đòi mua một cái nhà trên phố để mấy
đứa cháu đi họ cho gần, bà không cho tiền. Đúng là “bà già trầu” giữ của!
Hai
vợ chồng tôi đi trên một chiếc xe
Nhà
thờ Truyền Nam được sơn phết lại màu vàng chói, vài chỗ viền sơn đỏ gạch, có vẻ
như là sự "sáng tạo" từ màu đỏ chóe-vàng khè -màu ưa chuộng của con
cháu cụ Hồ, cũng là màu thường thấy của họ Mao ở Thiên-an-môn bên Tàu. Nhưng
dưới đôi mắt nghệ thuật, tôi thích để màu rêu phong cổ kính như hồi còn nhỏ tôi
thì hay hơn. Thuở còn nhỏ, sau mỗi bửa cơm tối, tôi hay tảo bộ từ nhà chừng nửa
tiếng đến nhà thờ nầy dạo quanh sân cho tiêu cơm.
Thấy
cổng nhà thờ đã khóa trái lại, trong sân vắng lặng không thấy bóng người. Tôi
chợt nhớ ra, linh mục Lý vì tranh đấu chống sự áp bức của chính quyền nên giờ
nầy đang ngồi tù thì lấy ai mà cai quản giáo xứ! Tự dưng, lòng tôi thấy
giận cha Lý, tại sao ông không biết chịu đựng để chăm sóc cho đời sống tinh
thần của giáo dân, nghĩ ra nhiều kế hoạch để canh tác, trồng trọt, làm ăn cho
dân Công giáo ở đây có thêm đời sống thoải mái hơn. Ngày xưa, tôi nhớ dân ở đây
chỉ làm nghề chằm nón lá, không làm sao khá lên được… vậy mà ông Lý lại được
hải ngoại gởi tiền về để sắm xe Van Nhật chở dân đi hội họp, biểu tình chống
Việt cộng, thì Việt cộng đâu sợ gì ông, nhưng hậu quả lại để cái nhà thờ to lớn
kia và đám con chiên không ai coi sóc!! Thật đáng trách. Về sau nầy, tôi mới
biết lúc ở nhà thờ Nguyệt Biều, thì ông Lý đã vì bất khuất đòi tự do tôn giáo,
và đối chọi với sự áp bức của công an, nên đã bị cầm tù. Trước đó, ông đã nhận
lãnh một “tiền án” là 10 năm tù ở về tội “Phá hoại khối đoàn kết toàn dân” và
“Phá rối trật tự an ninh” từ ngày 13/12/1983. Tức là đến năm 1993, ông mới được
ra tù. Sau đó, lại bị Tòa án Việt cộng phạt thêm lần nữa là 15 năm tù về tội
“Không chấp hành quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về
quản chế hành chính” và “Phá hoại chính sách đoàn kết” vào ngày 19/10/2001,
-tức là trong thời gian tôi có mặt để chụp tấm hình nhà thờ nầy thì linh mục Lý
đã bị giam cầm chừng ba tháng trước đó rồi, làm sao trách ông cho được. Bây giờ
đây, ông lại bị Tòa án Việt cộng kết án với tội tương tự như các lần trước và
bị bắt tạm giam ngày 29/3/2007. Trước phiên tòa, cả thế giới đều thấy
linh mục Lý dõng dạc hô lên: “Đả đảo đảng Cộng sản” đến nỗi bị một tay công an
vai u thịt bắp bịp mồm không cho nói tiếp.
Xét
ra thì hành động của cha Lý là quả cảm, đúng truyền thống bất khuất của người
dân Huế. Hành động ấy dù có thể có tính toán suy nghĩ trước, nhưng so sánh với
hành động của những người tù cải tạo là sĩ quan trẻ của quân đội Việt Nam Cộng
Hòa, như khi tôi đi thăm người anh kế đang học tập trong trại tù tỉnh Phước
Long, anh tôi chỉ vào một ngôi mộ đất còn mới bên kia đường kể, “một bạn tù
tính trốn trại bị bọn bộ đội Bắc Việt bắt kịp, đem ra xử, anh ta hô to lên: Đả
đảo Cộng sản; Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!”, rồi bị bọn Bắc Việt bắn chết ngay.
Ôi, sè sè nắm mộ nên đường; Hỡi người khí phách hồn còn hờn căm!? Năm
1977, khi tôi đi làm việc dưới Ty Giáo dục Tiền Giang, một hôm ghé qua trường
trung học Nguyễn Đình Chiểu xem một vụ xử án công khai những “người phản động
chống đối nhà nước Việt Cộng”, khi tòa tuyên án có một anh hô to, “Đả đảo Cộng
Sản, đả đảo Cộng Sản”, tức khắc bị vài tên công an nhanh tay tới quặp tay anh
ra phía sau, xốch nách dẫn đi ngay. Tôi tin chắc chắn những người ấy không thể
nào còn sống sót đến ngày hôm sau.
Nói
gì đâu xa, năm 2003, trở về thăm Việt Nam lần nữa, khi tôi đang chờ cô con gái
đến đón, nhưng không hiểu vì sao nó “cố tình” trể nãi, tôi bực mình tính hỏi
mượn phôn công cộng trong phi trường để liên lạc với phôn tay của nó, nhưng mấy
con “mẹ Bắc kỳ” làm việc ở đây đã không cho dùng thì chớ lại mở lời hách dịch.
Tôi bực bội không kiềm hãm được, nên buột miệng như nói một mình, “Đ…mẹ dân Bắc
kỳ bọn bây vào miền
Hành
động của một vị linh mục như cha Lý, tạm coi là can trường, nhưng cũng có thể
có những hành động đối đầu với Việt cộng trong bóng tối, bị che khuất không ai
thấy còn can trường gấp bội. Dù sao, tôi vẫn cảm thấy một niềm hãnh diện
cho người Huế, dù linh mục Lý gốc người Quảng Trị, rồi vào Huế cư trú ở xã
Phong Xuân, huyện Hương Điền. Quý vị đồng bào Việt Nam nên hiểu rằng, người Huế
chúng tôi không phô trương ồn ào, không khóac lác, không ta đây, không mồm mép,
không hề nịnh hót bợ đỡ ai, không chèn ép người khác, nhưng khi phẫn nộ trước
sự bất công, bạo tàn, vì hèn nhát, đê tiện… thì hãy coi chừng. Người Huế xem
cái chết như tựa lông hồng, và luôn luôn có những khả năng làm những chuyện
kinh thiêng động địa, không phải vì bắt chước, không vì muốn lập dị, muốn chơi
nổi, nhưng đó là những đặc tính của người dân Huế. Có thể kể thêm vài trường
hợp gần đây như các anh Lý Tống, Trần mạnh Quỳnh v.v… (là những người tôi không
hề quen biết khi còn ở trong nước), nhưng là những nhân vật đã tạo nên những
giai thoại động trời về chuyện chống Cộng, trốn trại tù Cộng sản, chuyện vượt
ngục có một không hai, để lại những hào khí bất khuất và tình người với anh em
đồng đội trong những ngày tù tội… ai cũng nể phục. Tôi nghe kể lại anh
Trần mạnh Quỳnh hơn 10 năm trước về nước tính giật sập “Nhà trưng bày tội ác
Mỹ-Ngụy" của bọn Việt cộng. Điều đó những người như anh có thể thực hiện
dễ dàng, nhưng nghĩ tới sự chết oan của người dân mà hủy bỏ dự định... Họ là
những người lính dũng cảm của chế độ Việt Nam Cộng Hòa dưới những người lãnh
đạo chưa hề xứng đáng với tầm vóc dũng cảm, nhưng lòng đầy nhân bản của họ. Họ
dám chơi bạo, chơi đúng nghĩa của một người anh hùng hảo hán, không sợ sệt,
không ném đá dấu tay, chơi ngang ngữa với “bọn Việt cộng Bắc kỳ” hay bất cứ ai,
nhưng không bao giờ chấp nhận sự đê hèn của những bọn "trí thức" đi
làm “chỉ điểm, tay sai” để lập công với Việt Cộng… Hãy ghi nhớ, họ không hề
biết sợ ai đâu.
Cho
nên, trong lòng tôi tự nghĩ , hành động của linh mục, xét cho cùng là tiếp nối
theo con đường của các người nói trên, quả cảm và bất khuất, dù chức “linh mục”
là đại diện cho Giáo hội Công giáo, là thừa lệnh Vatican, truyền lời Chúa đến
các con chiên; thế nhưng, trong khi Thủ tướng và phái đoàn chính quyền Việt
Cộng đi triều kiến giáo hoàng, thì linh mục Lý đã làm hành động ngược lại, can
đảm, biểu tỏ một tinh thần tự chủ của người công dân nước Việt, hoàn toàn đi
ngược lại với sự mong đợi của Vatican. Linh mục Lý đã thể hiện cái “Dũng” của
một nhân cách Huế, của một vị tu sĩ Công Giáo can đảm trong hành động, độc lập
trong suy nghĩ. Tôi xin nghiêng mình ngưỡng mộ. CT
với anh tôi, họ là người Bắc, Công giáo nên rất ghét Việt cộng) thường hay thăm
viếng nhau. Anh H. có đưa cho anh tôi coi tờ Cái Đình Làng của tên Dương
trọng Lâm nào đó vừa bị bắn[Chúng tôi tạm
thời tự ý kiểm duyệt đục bỏ những thông tin không có lợi cho vấn đề an ninh của
quốc gia Hiệp-chủng-quốc Hoa Kỳ! - NVH]iquỷ quái đó. Tôi không hề tò mò và đâu có thì giờ để đi
đọc truyền đơn Vixi. Trước đó có (của ễn văn Lục trong vài bài báo đã xác
định ông LTV nầy là đảng viên đảng CS...
Cuối
năm 2006, VC mới được Mỹ cho tham gia vào WTO, giấy tờ ký chưa ráo mực mà đã
thấy những cánh tay nối dài của Bắc Bộ phủ bắt đầu muốn tìm kiếm một cơ hội để
tái tổ chức đường giây tình báo, xây dựng lại các tiểu tổ (party cells) hoạt
động cho đảng Cộng sản vốn đã bị tan rã trên đất Mỹ sau cái chết của tên Lũy.
Giả như những tổ tình báo CS nầy phối hợp với tình báo TC thì chỉ có nước đốt
cháy nước Mỹ một ngày nào đó. Chúng ta là những người ra đi vì từ khước chế độ
tàn bạo đó, được người Mỹ mở rộng bàn tay đón nhận, giúp đỡ tạo lập một cuộc
sống khá hơn có thể nào chấp nhận để cho sự trạng đó xảy ra?. Tôi nghĩ
rằng, bọn Cộng sản hãy dẹp bỏ những tham vọng ngông cuồng đó đi. Đó là tham
vọng muốn khống chế sự an toàn và bình yên lên đầu cộng đồng người Việt của bọn
Bắc Bộ phủ ở trên đất Mỹ nầy. Xin hãy “dumping” chủ nghĩa cộng sản quốc tế vào
đống rác lịch sử nhân loại. Tiếp tay cho chế độ cộng sản Bắc Việt
Hành
động của linh mục Lý đã làm lung lay tận gốc rễ nền tảng luân lý chính trị của
Nguyễn Văn Hóa (Tinh Đẩu)
Reposted: Wednesday, April 11, 2007https://hoavanblog.blogspot.com/2021/03/nho-ve-ky-niem-lang-chuon-cam-thu-linh.html
© copyright
giaodiem.net | 2021
No comments:
Post a Comment