nguyễn văn hóa
- At left, French actress Aymeline Valade; at
right, American ingenue Elle Faning. Photos: Getty Images; REX / Shutterstock
Ông Tây là dân tộc đa số thuần chủng --dân Gaulois, có truyền
thống văn hóa dày và đậm. Chế độ phong kiến quý tộc Tây cũng có một chiều dài
và dày tương tự, nên họ kiêu ngạo và hãnh tiến. Ông Mỹ là một ông ‘’hợp chủng’’,
có tinh thần khai mở, mã thượng giang hồ, và một số lớn từng là nạn nhân của chế
độ quý tộc Âu châu (trong đó có tôn giáo), nên khi đến vùng đất mới, họ mang
tinh thần vừa ‘’cao bồi’’ lẫn nghĩa hiệp. ‘’Cao bồi’’ thể hiện qua tinh thần
‘’duel’’ bằng đấu súng để giải quyết mọi mâu thuẫn, thù hằn, tranh chấp cá
nhân. Anh rút súng nhanh, bắn súng tài nghệ thì anh thắng cuộc đấu. Quang minh
chính đại, không có chơi chùng chơi lén. Tinh thần ‘’duel’’ này chính là kế thừa
tinh thần đấu kiếm của Âu châu!.
Người ‘’Mỹ mới’’ đến vùng đất mới không nham hiểm, bảo thủ,
hoách lác, mà có khi là ‘’ngây thơ’’ và dễ tin người trước những đối nhân xử thế
với loại người thâm trầm, hiểm, tráo trở, quỷ quyệt và mưu mô như người Tàu (hoặc
học trò của Tàu là Việt.) Tinh thần này khác biệt với người Nhật. Bởi cái
‘’dũng’’ của người Nhật hiển lộ rõ ràng, minh bạch như truyền thống ‘’duel’’ của
người Âu châu vậy. Một cá nhân người Nhật sẵn sàng tự sát nếu họ lỡ vi phạm những
điều ô nhục cho bản thân mình, dòng tộc, tông phái. Vì vậy, tinh thần Phật Giáo
của Nhật Bản khác xa với tinh thần Phật Giáo của Ấn Độ, Trung Hoa (và học trò
Việt). Phật Giáo Nhật Bản từ thời Suzuki thâm nhập và gây ảnh hưởng lớn cho một
số người trí thức Mỹ (thường họ là thành phần trung lưu hoặc trên trung lưu),
và cư ngụ ở những khu vực (Zip codes, City, County) có một mức độ thụ đắc giáo
dục và văn hóa cao.
Đệ Nhi Thế Chiến bùng nổ khi nước Mỹ như một chàng thanh
niên vừa mới trưởng thành. Hùng mạnh, hào hiệp và đầy lý tưởng. Sự phát triển vượt
bực về kinh tế nhờ vào kỹ nghệ hóa, máy móc tự động trong sản xuất, phát kiến
nhiều công trình khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất dây chuyền và cơ giới
hóa nông nghiệp chưa tròn một thế kỷ. Tất cả là nhờ vào kết quả đổ xương máu để
xóa bỏ vĩnh viễn chế độ nô lệ. Những chủ nô ở các tiểu bang phía Nam cố duy trì
chế độ nô lệ chỉ vì lòng vị kỷ và không muốn kỹ nghệ hóa nền kinh tế sản xuất bằng
cơ giới, không phải vì sự thù ghét màu da (race hatred).
Chính vì vậy, trong Thế Chiến II, Mỹ hùng mạnh về cơ giới và
quân sự, nhưng ‘’tinh thần hỗ trợ chiến tranh’’ còn rất yếu kém. Tôi muốn nói về
lãnh vực an ninh và tình báo. Trong lúc M1, M5, M16 là những tổ chức tình báo
Anh đã quá ‘’già dặn’’ và tinh vi. Deuxième Bureau của anh Tây cũng không kém.
Cả hai tổ chức này đều biết về tông tích nhân vật gián điệp cộng sản quốc tế Hồ
Chí Minh rất rõ, nhưng không bao giờ muốn cung cấp những thông tin này cho
O.S.S (tiền thân của CIA) vì có chủ đích riêng của họ. Sự ‘’ngây thơ’’ của
O.S.S đã thể hiện rõ ràng trong giai thoại cúa toán Dear Team khi tiếp xúc với
các nhóm của Việt Minh, và người Tàu Quốc Dân đảng ở vùng biên giới Việt-Hoa.
Toán Dear Team rất tơ lơ mơ về HCM, có khi đã bị Hồ Chí Minh lừa đảo quá dễ
dàng.
Chàng thanh niên cường tráng ‘’hợp chủng’’ Mỹ kia, với tấm
lòng hào hiệp và lý tưởng đã thực tâm muốn giúp Pháp thắng Việt Minh. Họ đã
giúp bằng vật lực, tài lực khá dồi dào cho Pháp khi anh thực dân Gaulois này muốn
trở lại Đông Dương. Song sự tham lam vì mối lợi của Đông Dương đã làm cho anh
Tây mờ mắt không nhìn nhận đến thời thế suy tàn của chế độ thực dân đi đôi với
lý tưởng hào hiệp của chàng thanh niên Mỹ. Trận chiến Điện Biên Phủ 1954, trước
hết là một lỗi lầm về chiến thuật và chiến lược do Pháp tự tạo ra. Người Mỹ
không thể đáp ứng ‘’đòi hỏi’’ của Pháp sử dụng một dàn B-57 (kể cả võ khí
nguyên tử chiến thuật) để rãi bom chung quanh ĐBP nhằm tiêu diệt toàn bộ đội Việt
Minh (kể luôn cả chấp nhận ‘’collateral damage’’ cho một số quân Pháp.) Hẳn là
De Gaulle rất tức bực về chuyện đó, rồi đã trả hận bằng cách ‘’thọc gậy bánh
xe’’ trong mọi nỗ lực xây dựng một chế độ dân chủ của miền Nam Việt Nam.
Câu chuyện về ‘’Wild’’ Bill Donovan, một bậc thầy về gián điệp,
người đã tạo dựng tổ chức O.S.S. và cơ cấu tình báo hiện đại cho mước Mỹ về
sau, trong thời gian đó (1954) đang là Đại sứ của ‘’Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ’’ tại
Bangkok, Thái Lan, bay qua bay về Sài Gòn hầu như mỗi ngày… đâu có bao giờ muốn
Pháp bị thất trận bởi Việt Minh-Tàu đỏ!? –Bằng cớ chứng minh rất rõ: Vào sáng
ngày mồng 8 tháng 5, 1954, Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Bangkok đã được lệnh treo cờ rũ
(half-mast) để chia buồn khi biết tin Pháp thất trận ở ĐBP. Deuxième Bureau của
Tây có ghi nhận kịp thời sự kiện đó không? (trang 370-371, Wild Bill Donovan,
by Douglas Waller, nxb Free Press 2011.)
Nguyễn Văn Hóa
November 29, 2019 | 7:00:56 AM
No comments:
Post a Comment