Hoa Blog

Thought of the day

3/20/21

Tưởng niệm Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai

(Encyclopedia Britannica -Year of Review 1997: “Le Mai: Vietnamese politician who held numerous diplomatic posts, including deputy foreign minister, and was instrumental in improving relations with the U.S.  following the Vietnam war (b. 1940 –d. June 12, 1996)..”

-Deputy Foreign Minister Lê Mai (deceased) and Admiral Charles Larson, Jan. 16, 1994 [photo courtesy of AFP.]

Nguyễn Văn Hóa

12 tháng 6 : Ngày này mười năm trước

Tháng Sáu của năm 1996, Hà Nội đối đầu với một tình huống chính trị căng thẳng, và một biến cố bất ngờ xảy đến -Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai đột ngột từ trần. Hai hôm sau (13/6/1996) ở vùng Vịnh Bắc California, tờ San Francisco Chronicle loan tin :  Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Mai (1940-1996) chết. Ông ta là một thành viên cấp nhỏ trong phái đoàn hòa đàm về việc Mỹ triệt thoái khỏi VN năm 1973 và là kiến trúc sư chính trong chiến dịch bình thường hóa ngoại giao Mỹ-Việt Nam.

Tờ Asianweek cũng đăng tin trong mục “cáo phó” : Lê Mai, 56 tuổi, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam, bị cơn kích ngất tim, từ trần ở Hà Nội vào ngày 13 tháng 6. Ông là công cụ bình thường hóa ngoại giao giữa VN và Mỹ kể từ 1977, một người có vai trò chính đưa tới sự chấm dứt cấm vận kinh tế của Hoa Thịnh Đốn vào tháng 2/1994 và tạo dựng quan hệ bình thường 18 tháng sau đó. Ông Mai từng là cựu đại sứ tại Thái Lan và đã tham dự trong phái đoàn hòa đàm Paris năm 1973.

Đạc biệt trên tờ ‘Độc Lập’ (The Independent, London) ngày 14/6/96, ký giả “lão bà” Judy Stowe đã viết một bài tường thuật tương đối đầy đủ hơn, lên tiếng ca ngợi Lê Mai là một trong những nhà ngoại giao có khả năng nhất; và dư luận chính trị quốc tế mong đợi ông sẽ là một đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Hoa Thịnh Đốn, hay có thể là người sẽ nắm giữ chức vụ Bộ Trưởng Ngoại Giao. Dù ở vị thế nào đi nữa, ông sẽ là người tháo gỡ sự cô lập quốc tế của Việt Nam trong một thời kỳ kéo dài. 1 (Obituary: Le Mai, Judy Stowe, xem chú thích )

Ông Mai nói tiếng Anh lưu loát, gặt hái nhiều kinh nghiệm trong thế giới bên ngòai trong những năm đầu thập niên 70, qua những cuộc hòa đàm kéo dài ở Paris với người Mỹ và đưa tới sự chấm dứt chiến tranh. Tuy vậy, thỏa ước ký kết vào năm 1973 đã không mang lại hòa bình và hàn gắn vết thương chiến tranh như nhiều người Việt Nam mong đợi. Cũng chẳng phải thỏa ước đó mang lại chiến thắng cho Hà Nội hai năm theo sau. Việt Nam lại sớm đương đầu với khó khăn khác, lần này là quốc gia lân bang Cambodia, dẫn tới sự xâm lăng của Việt Nam năm 1978. Mặc dù Hà Nội công bố đó chỉ là hành động tự vệ, đồng thời là chiến dịch nhân đạo nhằm giải phóng người Cambốt thoát khỏi sự cai trị man rợ của Pôn Pốt, những nhà ngoại giao Việt Nam phải hết sức khó khăn trong hơn một thập niên nhằm chính nghĩa hóa sự hiện diện quân sự ở Cambodia. Đó cũng là vấn đề chính yếu thử thách khả năng ngoại giao của ông Lê Mai.

Trong lúc sự thù nghịch giữa Việt Nam và Thái Lan đang ở cao độ, Lê Mai được bổ nhiệm làm đại sứ ở Bangkok, ông đã tạo dựng một vòng liên kết thân thiện và cảm tình của báo giới quốc tế trong cung cách đối phó và giải hoặc vấn đề Cambodia một cách mềm dẽo và khôn khéo. Trở về Hà Nội vào năm 1990, ông Lê Mai được bổ nhiệm chức vụ Thứ trưởng Ngoại giao. Qua vị thế đó, ông đã cải thiện sự quan hệ thân thiện với các quốc gia trong khối Đông Nam Á châu ( ASIAN ) cũng như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sự thương thảo với Hoa Thịnh Đốn gặp phải vấn đề rất khó nuốt là những quân nhân Mỹ bị mất tích trong chiến tranh ( Missing in Action – MIA) .

Qua nhiều thành tích ngoại giao đã xác nhận rõ hơn sự thành công của ông Lê Mai. Trong vòng hai năm, kể từ khi ông Lê Mai bắt tay vào công việc, chính quyền Tổng thống Clinton quyết định tháo gỡ cấm vận thương mại và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Cùng lúc, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thường trực của tổ chức ASIAN (1995), một thành quả mà nhiều nhà ngoại giao trong vùng đã ngưỡng mộ những nổ lực ngoại giao sắc bén, tinh tế của ông. Nhưng hơn thế nữa, mọi người đều mong chờ ông sẽ nắm giữ vai trò Bộ Trưởng Ngoại Giao mới thật đúng tầm cỡ mà ông có.

Nhân cái chết của Lê Mai, bà Judy Stowe lấy làm luyến tiếc và cho rằng, trong mấy năm gần đây ông không hề che dấu việc “sức khỏe yếu kém”. Giờ đây cái chết của ông như là phận số đối với những người bạn quốc tế mà ông đã xây dựng, có thể đang ở trong tâm cảm mất tin tưởng trong bầu khí chính trị Việt Nam đang chuẩn bị cho Đại Hội Đảng Cộng Sản sắp xảy ra.  2 ( xem chú thích )

12 tháng 6 – năm 2006

Chưa tới một năm sau ngày nhà ngoại giao Lê Mai từ trần, tự điển bách khoa Britannica trong “Year in Review 1997” đã dành hơn hai trang cung cấp một số thông tin hoạt động ngoại giao của Lê Mai. Và, 10 năm sau, thêm một lần nữa, Mark Sidel, giáo sư Luật (tại hai đại học Harvard và Iowa) đã viết thêm một bài tưởng niệm mới về Lê Mai.

Trên tờ The Wall Street Journal, trong mục “Bình luận” ngày 13/6/06, với tựa đề : “Nhà ngoại giao trầm lặng của Hà Nội” 3 ( Hanoi's Quiet Diplomat, xem chú thích ), Mark Sidel viết : “Mối quan hệ thắm thiết giữa Mỹ và Việt Nam mắc nợ nhiều với một người đàn ông mảnh khảnh, hay mỉm cười đã chết vào tháng này cách đây một thập niên trước. Không có Lê Mai, cựu thứ trưởng ngoại giao của Hà Nội, thì nước Cộng sản này không thể nào mời Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush viếng thăm vào tháng 11 tới, cũng chẳng thể nào đưa VN tới ngưỡng cửa gia nhập Tổ chức Thương Mại Quốc Tế (WTO). Thế mà ông Mai vẫn chưa được nhiều người ở ngoài Việt Nam biết tới.

Với vóc dáng của một người đàn ông khiêm tốn, mềm mỏng, nhũn nhặn, ông Mai là nhà thương thảo dẫn đầu trong việc mở đường cho việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao Mỹ-Việt Nam. Vào thời điểm ông chết, thì ông là người lãnh đạo mọi nỗ lực thương thảo hiệp ước mậu dịch song phương với Mỹ - là tiền đạo cho mọi thương thảo về WTO của ngày hôm nay.

Ông Mai lớn lên từ gia đình nghèo; sinh năm 1940 tại miền Trung, thành phố Huế. Ông học Anh ngữ tại trường Đại học Sư phạm Ngoại văn Hà Nội và tốt nghiệp năm 1962. Ông cưới bà Lê Hoàng Mai (về sau là một bác sĩ nhãn khoa nổi tiếng), đóng vai trò trong Hòa đàm Paris vào những năm đầu thập niên 1970, và sau đó làm việc cho Bộ Ngoại Giao, thăng tiến nhanh chóng xuyên qua các chức vụ từ Hà Nội đến Bangkok.

Qua các công tác về ngoại giao, ông Mai đã ý thức nhu cầu Việt Nam cần có vốn liếng tư bản nước ngoài và kỹ thuật để thăng tiến. Ông cũng nhận thức Việt Nam có nhu cầu một chính sách kinh tế đa thành phần của xứ sở -- sự từ bỏ triết lý chỉ-đạo-và-kiểm-soát của Hà Nội vào thời điểm đó, và chính quyền cần có một cái nhìn xa.

Ông Mai hiểu rất sớm sự quan trọng để tham gia vào Hiệp hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations), thúc đẩy mậu dịch trong vùng, và bước đi chính để tham gia vào cộng đồng mậu dịch quốc tế.. Các quốc gia thành viên là Thái Lan và Mã Lai rất e ngại sự kiện Việt Nam thống trị Cambodia, và ảnh hưởng của nó trên vùng đất Đông Nam Á châu.  Nhờ công lao bền chí của ông Mai và các người cộng sự, Việt Nam gia nhập vào tổ chức vào năm 1995. Ngày nay, Việt Nam đang gặt hái thành quả với sự tăng tiến đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và mức phát triển hàng năm chừng 7.5%.

Về nội chính, ông Mai đã giúp những “bố già” chính trị và quân sự hiểu rằng một quan hệ thân thiết với Hoa Kỳ và các quốc gia Á châu tạo nhiều tốt đẹp cho Việt Nam mà không làm suy yếu chủ quyền đất nước…

Vốn liếng chính trị mà ông Mai gặt hái được từ những cuộc thương thảo mậu dịch quốc tế có triển vọng đưa ông lên cấp cao và ảnh hưởng lớn hơn trong quyền lực chính trị – Trong mùa hè 1996 – ông đã được đề cử chức vụ bộ trưởng ngoại giao và phó thủ tướng, Giới quan sát tai mắt ở Hà Nội còn cho rằng vị thế của ông sẽ còn lên cao hơn nữa.

Thế mà ông đã ra đi một cách bất ngờ. Khác với lối bình luận “khoán trắng” cho quá khứ như bà Judy Stowe, Mark Sidel cho biết một vài chi tiết xa hơn : Ông Mai chết bất ngờ vào tuổi 56, vì một cơn kích ngất ngay tại hành lang của Bộ Ngoại Giao và cáo phó về cái chết của ông xuất hiện một cách trang trọng trên các nhật báo ở Hà Nội. Nhìn vào khuôn mặt thảng thốt của ông tổng bí thư đảng Đỗ Mười, và khi ông viếng tang tại tư gia của ông Mai để chia buồn với bà quả phụ Lê Mai, “biểu lộ sự tôn kính chưa hề thấy”.

Viễn kiến chính trị của Lê Mai còn phản ánh rõ hơn qua các bài diễn văn. Mark Sidel nhắc lại lời của Lê Mai : “để đạt sự độc lập vững chắc cho đất nước, nền kinh tế quốc gia cần phải được thịnh vượng lên, và tăng cường sự tự do cho mỗi cá thể.” Ông còn cảnh cáo tinh thần tự mãn : “Đừng để thành công quá khứ biến thành cái màn che kín đôi mắt trước sự thật trần trụi này : Việt Nam còn quá nghèo nàn và sự tiến triển còn quá chậm chạp !”.  4 ( xem chú thích )

Những thành tích về ngoại giao như thế thì không ai có quyền phê phán về năng lực làm việc của ông; một nhân cách phục vụ đất nước như thế thì không ai có quyền thắc mắc về lòng yêu nước nồng nàn và sáng suốt của ông.

Nhưng không may, ông Lê Mai đã chết đột ngột ở vào lứa tuổi mà sức làm việc còn bật lên nhiều hứa hẹn, và tất nhiên người ta có quyền nghi ngờ về cái chết đó.

Nhìn lại bối cảnh chính trị ở Việt Nam trước và trong thời điểm xảy ra cái chết của Lê Mai có ba biến cố cần ghi nhận :

1- Theo phân tích của Carlyle A. Thayer ( “Vietnamese Perceptions of 'the China Threat'”, Asia-Pacific of Security Studies, Honolulu, Hawaii) thì Trung Cộng ép Việt Nam ký kết với công ti khai thác dầu khí nặc danh Mỹ “Crestone Energy Corp.” tại Đại Sảnh Đường ở Bắc Kinh vào năm 1992 với ý đồ phá vỡ mọi quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam.  5 ( xem chú thích )

2- Trong năm 1996, nội chính Việt Nam đang ở thế đối đầu giữa thế lực Đảng và Chính quyền, đưa tới sự xung đột giữa các cấp “đầu sỏ”. Có ba vị tướng bị chết một cách bí mật : Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn và Đinh Đức Thiện. Giữa tháng 6, nhà ngoại giao Lê Mai chết đột ngột, và nhiều nguồn tin đáng tin cậy cho biết ông không hề có dấu hiệu gì về bệnh tật trước đó. Trong lúc đó, ông Nguyễn Đình Tứ, một ủy viên mới của Bộ Chính Trị cũng chết vì bị cơn ngất tim vào ngày đầu của Đại hội Đảng kỳ 8, cũng vào tháng 6.

3- Một sự kiện ngoài lề, nhưng rất đáng ghi nhận : Nhà báo Adam Shwarz của tờ “Tạp chí Kinh tế Viễn Đông” (the Far Eastern Economic Review) bị trục xuất và từ chối gia hạn giấy Visa, chỉ vì ông là một người am tường về tình hình chính trị Việt Nam, và trong một vài bài báo bị kiểm duyệt có bài đề cập đến cái chết của nhà ngoại giao Lê Mai !?

Giả sử, nếu có thể tin được cái chết của Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai là do một âm mưu ám hại chính trị, thì âm mưu ấy chính là âm mưu của những đầu óc hèn mọn, muốn đình chỉ sự tiến triển quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ--Viêt Nam và họ chỉ muốn dân chúng Việt Nam… Ngày hai bữa vỗ bụng rau bình bịch. Ăn chẳng cầu no, để giữ vững tinh thần "độc lập" quân tử…Tàu.  Và như thế, "họ" lại nợ người dân Huế, thêm một (..... + 1) sinh linh chết oan khiên.

Nguyễn Văn Hóa (đăng Giao Điểm dưới bút hiệu Thường Đức)

Thursday night, June 15, 2006

 

Chú thích:

  1. bấm lên hàng này để đọc nguyên văn
  2. nguồn: dẫn như trên
  3. nguồn:

             http://www.viet-studies.org/kinhte/LeMai_WSJ.pdf

  1. “achieve an independence more stable for the motherland, an economy nore prosperous for the nation, a freedom more elevated for each person.”; and : “Do not let past success become a veil to blind the eyes from seeing the brutal truth: Vietnam is still too poor and advancing too slowly!”, dẫn như -3-
  2. On 8th May, China granted a concession for on exploration to a relatively unkown American firm, Crestone Energy Corp., in a disputed area (Tu Chinh bank) located on Vietnam’s continental shelf. This incedent was particularly galling to the Vietnamese as the Crestone contract was signed in Beijing’s Great Hall of the People and was announced on the day that senior party adviser, Nguyen Van Linh, held discussions at the very same place with general Secretary Jiang Zemin and primier Li Peng. The signing was witnessed by a U.S. diplomat. In the view of some Vietnamese officials, these actions smacked of tradiitonal imperial Chinese behavior and were calculated to undermine Vietnamese territorial claims and to disrupt U.S.-Vietnam normalization. In early July, Chinese troops planted a territorial marker on Da Lac reef in the Spatly archipelago. , Vietnam Perceptions of “the China Threat”, Carlyle A. Thayer -head of the School of Politics at the Australian Defense Force Academy., Dept. of Regional Studies, Asian-Pacific Center for Security Studies, Honolulu, Hawaii, -Presentation to International Conference on China Threat Perceptions from Different Countries, pp. 10, 11                               

http://www.giaodiemonline.com/thuvien/mluc/mluc_II06/606_thduc-LeMai.htm

 


No comments:

Post a Comment

Featured Post

Cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và...

  Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và ... cuốn Hồi k ý VNMLQHT của Đỗ Mậu             Cuốn Hồi Ký VNMLQHT ấn bản lần đầu tiên xuất hiện vào g...