Hoa Blog

Thought of the day

3/20/21

Quan điểm lịch sử mới của Seth Jacobs

Bàn v quan đim lch s mi ca Seth Jacobs khi nhìn li chiến tranh Vit Nam và chính sách đi ngoi ca M.  


















          (b
sung ngày 31.10.2006 –nvh)


Nguyn Văn Hóa


 Seth Jacobs là mt s gia, giáo sư s hc trường Đi hc Boston, bang Massachuttes. Ông còn là người Do Thái (h Jacobs !). Đc bit trong vòng 6 năm qua, ông viết 2 cun s đ cp đến chế đ Đ Nht Cng Hòa ca Tng thng Dim và mi liên h triết lý chính tr đi ngoi ca Hoa Kỳ trong giai đon m đu Chiến Tranh Lnh sau Thế Chiến Th II. Nói ngn gn v ‘triết lý chính tr đi ngoi’ đó là “yếu t tôn giáo.” Tht vy, tôn giáo va là công c, chiêu bài, va là chính sách thc tin áp dng ph quát lên vai trò lãnh đo ca các quc gia đng minh nh bé ca Hoa Kỳ, như mt sc mnh tinh thn kh dng đi đu vi s truyn bá “vô thn” ca hai quc gia đch th là Nga sô và Trung Hoa lc đa. Bài kho lun lch s “khai v” cho 2 cun s nói trên được đăng ti trên tp chí Boston College, Volume 25 chuyên đ: Diplomatic History, S 2, Thu 2001: ‘“Our System Demands the Supreme Being’: America’s Religious Revival and the ‘Diem Experiment.’ 1954-1955” .


Và tiếp theo sau là cun:


1. “Người Mang Phép L ca M Vit Nam: Ngô Đình Dim, Tôn Giáo, Chng Tc và S Can Thip ca M Đông Nam Á, 1950-1957,” Duke University Press, 2004 (America’ s Miracle Man in Vietnam: Ngo Dinh Diem, Religion, Race and U.S. Intervention in Southeast Asia, 1950-1957, Duke University Press, 2004).


Cun th hai, va xut bn trong tháng 9, 2006:


2. “V Quan Li Chiến Tranh Lnh: Ngô Đình Dim và Ngun Gc ca Chiến Tranh M Vit Nam, 1950-1963,” Nhà xb. Rowman & Littlefield, 2006. (Cold War Madarin: Ngo Dinh Diem and the Origins of America’s War In Vietnam, 1950-1963, Rowman & Littlefield, 2006).

Mt bài báo khác trên tp chí Boston College, S Mùa Xuân 2005 (Spring 2005) , gn như thu tóm lun s ca hai cun sách nói trên, “Hoa Kỳ đã h tr v Tng thng tht bi và ‘đo đc gi’ Min Nam Vit Nam như thế nào?” (How America Came to Back South Vietnam’s Despised and Doomed President?). [i]


Từ PCB Design

Từ PCB Design ( [i] ) đến The Berkeley Times... rồi Siemens Medical Labs

 


          (Viết để tưởng nhớ vong linh anh Lý Khôi Việt, một người bạn đã ra đi lúc còn quá trẻ. Giữa năm 2008, từ VN tất tả ''trốn chạy'' về Mỹ, tôi nhận được @ của Nguyễn Hữu Liêm nói LKV vừa qua đời. Tôi tưởng ông đùa, không tin. Sau @ hỏi chị Thái Kim Lan, tôi mới biết đó là tin thật. Trễ quá rồi, tôi không đến dự đám tang được. Mong vong linh bạn tha lỗi. Và, để tưởng nhớ chị Hà... Xin cầu cho các hương linh trên được yên nghỉ ở Niết Bàn, ở chốn Thiên Đường. NVH)

Anh nhà báo Nguyễn Xuân Nam và

 Anh nhà báo Nguyễn Xuân Nam và ông Vũ Văn Lộc: bên tung bên hứng qua bộ phim tài liệu chiến tranh VN của Ken Burns

 

                             (Photo courtesy of Kanopy)

Ai chứ đồng bào người Mỹ gốc Việt vùng Bắc Cali nầy đều biết ''mồm mép, miệng lưỡi'' của ông Vũ Văn Lộc, nhất là biết ''lập trường chính trị, nhân cách'' ông một cách rất ''chính xác''. Ông là người đầu tiên chống/ chê cuốn phim ''Terror in Little Saigon'' hăng hái nhất. Cho đến 2 năm sau, mới đây, ông cũng ''chê bai'' cuốn phim ''The Vietnam War'' của đạo diễn Ken Burns trong lần đầu tiên được NXN ''gợi chuyện'', phát hình vào ngày 24/9/2017. Sau đó, có lẽ ông Lộc bắt đầu nhận ra qua dư luận có nhiều ''điều lạ'' -nhất là có người cho rằng có sự ''nối kết'' mục tiêu và chủ đích giữa ''Terror in Little Saigon'' và ''The Vietnam War'' (ví dụ như bài báo điển hình của Lữ Giang); ông N.X. Nam lại tạo cơ hội cho ông Lộc được nói thêm và ''nói lại''lần nữa  về hậu sự qua bộ phim của Ken Burns. Quý vị cứ nghe thì sẽ rõ ''mồm mép'' của ''ông Bắc kỳ di cư 54'' nầy lúc ông còn 14 tuổi ở Hà Nội, sau thời gian VM và HCM đã cướp được chính quyền năm 1945, trên ngực áo ông được đeo cái huy hiệu màu đỏ sao vàng hình vuông (ông gọi là lực lượng ''tự vệ thành'') để phân biệt với huy hiệu của bộ đội Việt Minh (cũng màu đỏ sao vàng nhưng hình tròn). ''Tự vệ thành'' của thiếu nhi Lộc trong lúc đó chắc hẳn là có nhiệm vụ bảo vệ ''thành phố Hà Nội'' chống Pháp, trong lúc Việt Minh phải rút về vùng rừng núi thượng du Bắc Việt vì biết không đủ sức để đánh lại Pháp vừa trở lại. Năm 18 tuổi (theo lời kể của Lộc) thì ông được di cư vô Nam (1954) để tiến lên con đường làm ''quan''. ( Ông còn nhớ ngày di cư cô ca sĩ Khánh Ly  mới 13 tuổi, Kiều Chinh thì 16 tuổi. Xem chừng như họ cùng đi một chuyến tàu vô Nam và có quen biết nhau từ dạo đó!?). Đố ai mà biết được, ngoại trừ hai cô Khánh Ly và Kiều Chinh.

Tưởng niệm Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai

(Encyclopedia Britannica -Year of Review 1997: “Le Mai: Vietnamese politician who held numerous diplomatic posts, including deputy foreign minister, and was instrumental in improving relations with the U.S.  following the Vietnam war (b. 1940 –d. June 12, 1996)..”

-Deputy Foreign Minister Lê Mai (deceased) and Admiral Charles Larson, Jan. 16, 1994 [photo courtesy of AFP.]

Nguyễn Văn Hóa

12 tháng 6 : Ngày này mười năm trước

Tháng Sáu của năm 1996, Hà Nội đối đầu với một tình huống chính trị căng thẳng, và một biến cố bất ngờ xảy đến -Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai đột ngột từ trần. Hai hôm sau (13/6/1996) ở vùng Vịnh Bắc California, tờ San Francisco Chronicle loan tin :  Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Lê Mai (1940-1996) chết. Ông ta là một thành viên cấp nhỏ trong phái đoàn hòa đàm về việc Mỹ triệt thoái khỏi VN năm 1973 và là kiến trúc sư chính trong chiến dịch bình thường hóa ngoại giao Mỹ-Việt Nam.

3/19/21

We are the world

 Nghĩ vắn trong ngày: ''We are the World''

 

Imagine lyric poster courtesy of Tallenge store

          Cứ mỗi lần nghĩ về nguyên tắc ''nối kết bạn'' của Facebook, tôi nhớ tới bài hát ''Imagine'' của John Lennon, ban nhạc the Beatles. Tôi xin trích và chuyển ngữ một đoạn sau:

Imagine

(Lyrics by John Lennon)

Imagine there's no heaven
It's easy if you try
No hell below us
Above us only sky
Imagine all the people living for today

 Imagine there's no countries

It isn't hard to do
Nothing to kill or die for
And no religion too
Imagine all the people living life in peace, you

 You may say I'm a dreamer

But I'm not the only one
I hope some day you'll join us
And the world will be as one

Cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và...

 Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và... cuốn Hồi ký VNMLQHT của Đỗ Mậu

 


          Cuốn Hồi Ký VNMLQHT ấn bản lần đầu tiên xuất hiện vào giữa năm 1986. Dạo ấy, chúng tôi (có Nguyễn Hữu Liêm, đang đi học Luật ở San Francisco; Trần Sĩ Hải (tốt nghiệp HEC (Hautes Etudes Commerciales, ở Pháp); và tôi thường hay tụ họp ở nhà vợ chồng Lý Khôi Việt ở Berkeley vào mỗi cuối tuần. Hai phu nhân của ông NHL và LKV là những người vợ đảm đang, nên chúng tôi thường được thưởng thức những món ăn ngon miệng. Mối giao tình giữa chúng tôi chỉ là tính cách tình cảm, không có ''chính trị chính em'' gì trong đó cả.

3/13/21

Cảm thụ Linh muc Lý

Nhớ về kỷ niệm làng Chuồn, cảm thụ Linh mục Lý 

Nguyễn Văn Hóa 





Gia đình của mẹ tôi có ba anh em: một trai hai gái. Người con đầu là trai, mẹ tôi là con gái út. Cũng bởi, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” của một xã hội bị ảnh hưởng của văn hóa Đại Hán, nên phụ nữ không được cho ăn học. Ông ngoại tôi chắc là người hay chữ, và có thời làm ngự y, nên chỉ có người con trai đầu là được học chữ “thánh hiền”, đọc được vài ba cuốn sách Tàu, được truyền nghề đông-y-sĩ -tục gọi là ông-thầy-Hưng; sau đó đi làm thầy thuốc cho một tiệm Tàu ở gần Gia Hội, được trả tiền bắt mạch và ăn chia tiền thuốc, nên khá giã. Nhờ khá giã, nên nhà cao cửa lớn, con cái sống đầy đủ, phủ phê, nhưng lại ham chơi và học dốt. Bằng chứng có đứa con trai của ông tuổi gần bằng người anh kế tôi, tức là cách tôi 5 lớp, nhưng thi tú tài hoài không đậu. Tôi nhớ anh kế tôi học ban Toán, nhưng thích đọc sách Triết, thích thơ, nên trước mỗi dịp thi (diplôme, tú tài…) chỉ cần chừng một tháng trước khi thi bỏ thì giờ ngồi ôn lại bài và làm toán, là đủ để thi đậu. Người anh con cậu tôi (tên T.) thi rớt “bốn keo” (4 năm liên tục), cho nên đến lúc tôi đang học đệ tam ở trường Nông Lâm, nộp đơn “thi băng” (thi trước một năm), thi chơi nhưng đậu thiệt, đúng vào năm anh nầy cũng đậu cùng lúc, cùng nằm trong danh sách có tên tôi trước cổng trường Quốc Học, nên anh ta ngẩn tò te, xem chừng hơi xấu hổ. Anh nầy đậu nhưng không muốn đi lính, nghe nói “đút lót” gì đó và kết thân với Liên Thành (LT -có thời làm trưởng ty cảnh sát) được LT cho làm ‘công an chìm’, sắm chiếc xe Bridgeston chạy tà tà đi chơi và tán gái.

Câu chuyện cuối năm

 Lời mở: Trong những năm đầu mới đến đất Mỹ, tôi đi học tiếp.. Những ngày đêm mùa đông, lạnh và nhớ nhà, nhớ vợ con… và có những đểm thao thức nằm suy nghĩ về ‘vấn nạn’ Việt Nam. Thuở ấy chưa có computer, internet chưa phổ biến ngoài thị trường. Một đêm, nằm suy nghĩ rất căng, tôi thức dậy lấy giấy bút, và bắt đầu viết thâu đêm cho đến ngày hôm sau.. Nhớ gì trong đầu viết nấy, hoàn toàn không dùng sách vỡ, references. Một khái niệm về chính trị của Max Weber mà tôi từng đọc trước 1975 ở Sài Gòn làm tôi nhớ hoài: -Có hai loại chính trị: chính trị cảm hứng và chính trị trách nhiệm (Politique de l’inspiration et politique de la responsabilité). Chính trị cảm hứng là thứ chính trị của độc tài. Trong 3 vấn đề tôi nêu ra về tiểu dị biệt của dân tộc VN: chuyện nhỏ; 2 vấn đề kia: ý thức hệ và ước vọng của thế kỷ 21: chuyện lớn. Thế nhưng cho tới ngày cuối năm của gần hai thập niên đầu thế kỷ 21, cả ba vấn đề trên đều là ‘chuyện lớn’, và ‘nụ cười của thế kỷ 21’ vẫn chưa thấy hé mở ở chân trời… -Buồn ơi chào mi, nguyễn văn hóa 07/12/2013

 _________________

Câu chuyện cuối năm

Nguyễn Văn Hóa

(đăng lại ở đây để tưởng niệm đến vong linh người quá cố: thầy Nguyễn Hữu Đính)

(Đăng lại bài viết cũ này ở đây tôi muốn gởi tặng cho người bạn hiền Trần Tiến (kỹ sư Thủy Lâm khóa 10 Cao đẳng Nông Lâm, tốt nghiệp chừng một năm trước biến cố tháng 4/1975); tôi tình cờ gặp lại tại khu phố cũ San Diego cách đây hơn nửa tháng sau gần 40 năm “biệt tích”. Đó là người bạn học cũ cùng ban, cùng lớp ở trường Nông Lâm Súc Huế đầu tiên tôi được gặp lại. Vẫn, một thân hình nhỏ nhắn, một khuôn mặt gắn với nụ cười hiền như ngày nào, giờ đây hằn thêm nhiều nếp nhăn của ngày tháng. Sau khi bạn Tiến ra trường, được bổ nhiệm làm trưởng ban ‘Trồng cây, gây rừng’ thuộc Ty Thủy Lâm Đà Nẵng, cho đến lúc những người “anh em” từ Bắc vào tiếp thu… Hẳn là chán ngán với thế sự thăng trầm và nghề nghiệp chuyên môn bị bổ báng, mấy năm sau Tiến đã vượt biển và được định cư ở thành phố San Diego từ đó. Về lại San Jose vài ngày sau, tôi lại được tin thầy Nguyễn Văn Hạnh vừa từ trần… Mừng gặp lại bạn hiền. 27.3.2011, nvh.)



Câu chuyện Về ''ông Tây'' và ''ông Mỹ'' (the French vs the American guy)

  nguyễn văn hóa


- At left, French actress Aymeline Valade; at right, American ingenue Elle Faning. Photos: Getty Images; REX / Shutterstock

Ông Tây là dân tộc đa số thuần chủng --dân Gaulois, có truyền thống văn hóa dày và đậm. Chế độ phong kiến quý tộc Tây cũng có một chiều dài và dày tương tự, nên họ kiêu ngạo và hãnh tiến. Ông Mỹ là một ông ‘’hợp chủng’’, có tinh thần khai mở, mã thượng giang hồ, và một số lớn từng là nạn nhân của chế độ quý tộc Âu châu (trong đó có tôn giáo), nên khi đến vùng đất mới, họ mang tinh thần vừa ‘’cao bồi’’ lẫn nghĩa hiệp. ‘’Cao bồi’’ thể hiện qua tinh thần ‘’duel’’ bằng đấu súng để giải quyết mọi mâu thuẫn, thù hằn, tranh chấp cá nhân. Anh rút súng nhanh, bắn súng tài nghệ thì anh thắng cuộc đấu. Quang minh chính đại, không có chơi chùng chơi lén. Tinh thần ‘’duel’’ này chính là kế thừa tinh thần đấu kiếm của Âu châu!.

Người ‘’Mỹ mới’’ đến vùng đất mới không nham hiểm, bảo thủ, hoách lác, mà có khi là ‘’ngây thơ’’ và dễ tin người trước những đối nhân xử thế với loại người thâm trầm, hiểm, tráo trở, quỷ quyệt và mưu mô như người Tàu (hoặc học trò của Tàu là Việt.) Tinh thần này khác biệt với người Nhật. Bởi cái ‘’dũng’’ của người Nhật hiển lộ rõ ràng, minh bạch như truyền thống ‘’duel’’ của người Âu châu vậy. Một cá nhân người Nhật sẵn sàng tự sát nếu họ lỡ vi phạm những điều ô nhục cho bản thân mình, dòng tộc, tông phái. Vì vậy, tinh thần Phật Giáo của Nhật Bản khác xa với tinh thần Phật Giáo của Ấn Độ, Trung Hoa (và học trò Việt). Phật Giáo Nhật Bản từ thời Suzuki thâm nhập và gây ảnh hưởng lớn cho một số người trí thức Mỹ (thường họ là thành phần trung lưu hoặc trên trung lưu), và cư ngụ ở những khu vực (Zip codes, City, County) có một mức độ thụ đắc giáo dục và văn hóa cao.

Nghĩ vắn đầu ngày - Cội nguồn của “Dòng Tên’’ (the Jesuits Order)

nguyễn văn hóa


                                                                                

(Trước khi viết tiếp bài 2 này, tôi xin đính chánh bài 1 đã post lên Fb cách đây hai hôm: ‘’tiếng Việt không có nguyên âm ba (triphthongs)’’. Điều này là sai, do tôi sau khi viết mà chưa kịp edit. Xin đính chánh: Tiếng Việt có nguyên âm ba, tuy không nhiều. Ví dụ: iêu, yêu, huyền thoại, noái (nói), thoái (lui)… v.v… Thành thật cáo lỗi cùng các bạn, các bậc trưởng thượng. NVH.)

 ___________________________________

Ban đầu, Hội Dòng Tên (the Society of Jesus) chỉ là một phong trào (Movement) gồm có sáu người, đứng đầu là ông Ignatius de Loyola. Loyola vốn là một chiến binh (soldier/ soldat) người Tây-ban-nha, bị thương ở chiến trường, xuất ngũ, đi tu rồi trở thành một tu sĩ đạo Công giáo La-mã (thuộc Giáo triều Vatican; nói cho rõ để phân biệt với Công giáo thuộc Giáo triều Constantinople – Eastern Oxthodox Church). Loyola là một người rất sùng đạo, thành khẩn, thành tín với Thiên Chúa. Ông và năm người đồng môn khác tụ lại với nhau và thề nguyền sống cuộc đời kham khổ, thanh khiết, và họ nhắm tới hai mục đích chính: Một, là tìm cách cải đạo người Hồi giáo ‘’trở lại’’ với đạo Thiên Chúa vì họ nghĩ những người này đã đi lạc đường. Hai, họ muốn cản trở một phong trào ‘’Cải cách’’ [tôn giáo] (counter-Reformation) đang có khuynh hướng lan rộng ở Âu Châu bằng khuyến khích, thu phục những người này phải trở về với đạo gốc. Phong trào ‘’cải cách tôn giáo’’ trở thành những tín đồ của đạo ‘’Thệ Phản’’ (Protestant) sau này gọi là đạo Tin Lành (hoặc Tin Mừng).

Về chữ Quốc Ngữ

Nghĩ vắn giữa đêm về chữ Quốc Ngữ

Nguyễn Văn Hóa

                                                                                                                                                                                   


Trước khi ‘’tống táng’’ tủ sách của tôi gây dựng suốt thời gian ở Mỹ, tôi có ghi chép lại trong cuốn ‘’notes-book’’ của mình một số dữ kiện về chữ quốc ngữ của nước ta qua một số sách báo tôi nghĩ cần phải ghi nhớ. Ngoài một vài học giả có uy tín, xen lẫn với vài ‘’học giả tài tử’’ họ viết theo lối trích dẫn vài câu, đoạn văn của một vài tác giả có chọn lựa vì mục đích tuyên truyền chính trị, không có ý hướng lương thiện để cho thế hệ sau tìm hiểu, nghiên cứu trong mục đích mở rộng kiến thức, bồi đắp cho nền văn hóa, ngôn ngữ học của nước nhà. Số lượng của các tài liệu này dù thiếu lương thiện trí thức, nhưng cần thiết để tìm hiểu vì nó có liên quan tới vài biến cố thời sự trong nước hiện nay. Ví dụ: biến cố thời sự phản ứng của một nhóm người về việc đặt tên đường Alexandre de Rhodes ở Đà Nẵng vừa qua.

Trong một số lần về nước vào thập niên đầu của thế kỷ 21, tôi có ghi nhận một hiện tượng từ trong giới trí thức xã hội chủ nghĩa, họ đề cập tới cụm chữ ‘’ban bảo vệ chính trị’’ (!) hoàn toàn không có văn bản, không có trong tổ chức hành chánh tức là không có chức vụ và chỉ số lương (như Ban Tôn giáo, chẳng hạn). Họ làm việc trong tinh thần tự nguyện, tự giác, liên kết âm thầm với nhau. Tôi thầm tự đùa cợt với chính mình: Trời đất, đã có Bộ Chính trị trên thượng tầng kiến trúc rồi, giờ lại có thêm ‘’ban bảo vệ chính trị’’ ngầm nữa, thì hẳn phải là mấy anh muốn ‘’bảo hoàng hơn vua’’ đây. Vì thế, tôi cho rằng -bảo vệ chính trị chính là ‘’bảo vệ văn hóa’’. Nhưng, ‘’văn hóa’’ này là văn hóa gì? Văn hóa xã hội chủ nghĩa? Không đúng. Vì ngày nào chế độ cộng sản không còn tồn tại, thì văn hóa cộng sản sẽ tan theo. Văn hóa tôn giáo? Cũng không đúng luôn, vì các nhân vật này không có đủ trình độ và tư cách về tôn giáo thì làm sao họ có thể bảo vệ văn hóa tôn giáo? Cuối cùng, tôi nghĩ ‘’bảo vệ chính trị’’ đồng nghĩa với bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ cho sự tồn vong của chế độ chính trị mà họ muốn nó phải hiện hữu và tồn tại lâu dài (Trong bao lâu? Có thể là muôn năm). Và, hành vi – phản ứng của họ trong trường hợp chống lại sự tuyên dương, nhớ ơn của người Việt đối với một số giáo sĩ truyền đạo Công giáo (La-mã) trong sự đóng góp và cấu tạo chữ quốc ngữ cho chúng ta được sử dụng và phát triển vượt bậc trong mấy thiên niên kỷ vừa qua, trong các lãnh vực hành chánh và nhất là văn chương. ‘’Người ta’’ lên án Alexandre de Rhodes nặng nhất, vì ông là người có công lao hệ thống hóa chữ quốc ngữ.

Featured Post

Cố giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và...

  Cố Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy và ... cuốn Hồi k ý VNMLQHT của Đỗ Mậu             Cuốn Hồi Ký VNMLQHT ấn bản lần đầu tiên xuất hiện vào g...